Đang truy cập | 5 |
Tổng số lượt xem | 939504 |
THỰC HIỆN TÁI CƠ CẤU, XÂY DỰNG NỀN NÔNG NGHIỆP TOÀN DIỆN THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI SAU 13 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 26 Ở TỈNH SƠN LA
Trần Thị Long – Trường Chính trị tỉnh
Nông ngiệp, nông dân, nông thôn có là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.
Đối với tỉnh Sơn La, sau 13 năm thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH Trung ương khóa X về nông ngiệp, nông dân, nông thôn,hoạt động sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đã có những bước chuyển biến tích cực.
Sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện bước đầu có hiệu quả.Nhận thức củả các doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ chức, cá nhân về nông nghiệp hiệu quả, bền vững được nâng lên.Tạo ra mối quan hệ tác động giữa phát triển lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, trong đó coi trọng việc tiếp tục ứng dụng mạnh hơn khoa học, công nghệ vào sản xuất, bảo quản và chế biến; gắn với việc hoàn thiện mối quan hệ phân phối lợi ích để phát triển sản xuất, chế biến nông sản, thủy sản ứng dụng công nghệ cao theo hướng nâng cao chuỗi giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Nhiều cơ chế chính sách mới được ban hành, khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư vào sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản áp dụng các quy trình sản xuất nông nghiệp tốt, ứng dụng công nghệ cao vào một số khâu của sản xuất như ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm, nhà lưới, nhà kính, sử dụng một số giống cây trồng nuôi cấy mô, ứng dụng công nghệ sinh học trong xử lý chất thải chăn nuôi... Kinh tế nông nghiệp phát triển theo quan điểm sản xuất hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến, khai thác tốt tiềm năng lợi thế của tỉnh; tăng cường thâm canh, tăng vụ, ứng dụng các giống mới và các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2008 {theo giá so sánh 1994) mới đạt 3.388 tỷ đồng, đến năm 2020 giá trị tăng thêm {theo giá so sánh năm 2010) đạt 7.575 tỷ đồng; Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản năm 2008 chiếm 45,87% trong tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh, đến năm 2020 giảm còn 25,27%. Chuyển dịch cơ cẩu trong nội bộ ngành nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, nuôi trông thuỷ sản, giảm tỷ trọng ngành trông trọt; tuy nhiên, trồng trọt vẫn là ngành chiếm tỷ trọng tương đối cao trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh (Tỳ trọng ngành nông-nghiệp năm 2008, ngành trồng trọt chiêm tỷ trọng 76,3%, chăn nuôi 22,8%, dịch vụ: 0,9%; năm 2020, ngành trồng trọt chiếm tỳ trọng 57,8%, chăn nuôi 32,3%), dịch vụ: 9,9%)). Kết quả cụ thể như sau:
Năm 2020, diện tích gieo trồng cây hàng năm: 213.041 ha, trong đó diện tích cây lượng thực có hạt: 136.866 ha, sản lượng cây lượng thực cỏ hạt: 563.184 tấn; diện tích cây lâu năm: 108.897 ha. So với năm 2008 diện tích gieo trồng cây hàng năm giảm 12,6%; Diện tích cây lương thực có hạt giảm23,2%; Diện tích cây lâu năm tăng 227,6%.
Toàn tỉnh đã được cấp 181 mã số vùng trồng, diện tích 4.701,84 ha cây ăn quả phục vụ xuất khẩu. Đã bước đầu thực hiện cơ giới hóa sản xuất bằng việc đưa máy móc vào sản xuất, thu hoạch sản phẩm như sử dụng máy cày, máy gặt, phương tiện ô tô vào việc chở các nông sản đến nơi tiêu thụ. Thực hiện cơ giới khâu làm đất cơ bản đã đạt được 100% đối với một số cây trồng như mía, cao su, chè; trên 50% đối với một số cây trồng như: Lúa, sắn, ngô, cà phê. Trong khâu chăm sóc, bảo vệ thực vật lúa và các cây trồng khác đạt- trên 40%; khâu thu hoạch chiếm trên 80% đối với chè (sử dụng máy cắt chè). Hệ thống tưới (nhỏ giọt, phun...) tiết kiệm nước; 1.234 ha cho các loại cây trồng: Hoa, nấm, cà phê, chè, mía, rau các loại, cây ăn quả. Nhà lưới, nhà kính: 53,21 ha phục vụ cho sản xuất rau các loại.
Những kết quả đạt được cho thấy việc